Thursday, May 18, 2017

DTP


GS. Đàm Trung Pháp - Nhà biên khảo ngữ học
Kính mời quý facebookers/netters vào đọc 2 bài viết mới liên quan đến văn học Việt Nam của GS. Đàm Trung Pháp qua links sau:
1. “PHONG BA BÃO TÁP KHÔNG BẰNG NGỮ PHÁP VIỆT NAM”: ĐÚNG HAY SAI?
https://damtrungphan.wordpress.com/…/phong-ba-bao-tap-khon…/
2. GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: NGỮ-VỰNG TIẾNG VIỆT, GIÁO SƯ TRẦN NGỌC NINH
https://damtrungphan.wordpress.com/…/gioi-thieu-sach-moi-n…/
và nhiều bài viết khác rất giá trị về tham luận văn học và biên khảo ngữ học của GS. Đàm Trung Pháp trong 2 links tham khảo tiêu biểu dưới đây:
https://sangtao.org/category/tac-gia/dam-trung-phap/
-------------------------------------------------------------------------------
Intro: 
Prof. Dam Trung Phap est un érudit célèbre, esp. en linguistique, et il est aussi un mentor intellectuel bien connu dans l'étude de la littérature vietnamienne ainsi que des écrits culturels et intellectuels. Ses articles symboliques sont les suivants. 
......................................................Viet Hai Los Angeles.--------------------------------------------------
Câu chuyện ngôn ngữ: La moindre fleur de ta jupe
GS. Đàm Trung Pháp
Bút giả lấy hứng khởi cho câu chuyện ngôn ngữ kỳ này từ cách sử dụng ngôn từ khuếch đại rất ngông của Victor Hugo (1802-1885) trong đoạn chót bài thơ Pour Jeanne seule (Viết riêng cho Jeanne) :
Et sais-tu ce qui m’occupe
Jeanne? C’est que j’aime mieux
la moindre fleur de ta jupe
que tous les astres des cieux
Jeanne ơi, em có biết điều chi
đang bận lòng anh không nhỉ?
Đó là điều anh yêu đóa hoa nhỏ nhoi
trên váy em hơn tất cả tinh tú trên trời
Oh là là! Có ai biết cô Jeanne mặc váy dài hay váy ngắn hoặc là có bao nhiêu “đóa hoa nhỏ nhoi” như vậy trên váy cô không? Bút giả chỉ biết rằng sau khi tâm sự với nàng một hồi — nào là “anh đâu cần biết gì đến vua đến chúa”, nào là “có một sợi dây xích nó luôn luôn kéo cẳng anh về hướng nhà em”, nào là “anh đang nghĩ đến em quá chừng, em biết chăng” — thi hào Victor Hugo kết thúc bài thơ bằng một thứ chữ nghĩa khuếch đại, như đã trích dẫn bên trên, có lẽ ở mức quán quân hoàn cầu!
Ngôn từ khuếch đại (hyperbole trong Pháp và Anh ngữ) còn được gọi là đại ngôn, lộng ngôn, loạn ngôn, ngoa ngữ, ngôn ngữ phóng đại, bốc phét. Công dụng đặc biệt của loại ngôn từ này là để gia tăng (quá cỡ) cái mức độ hỷ, nộ, ái, ố trong một ngữ cảnh với chủ đích nhấn mạnh, gợi sự chú ý, hoặc bỡn cợt. Bài thơ thất ngôn bát cú khuyết danh tác giả dưới đây, làm toàn bằng lộng ngôn ngoa ngữ, là một thí dụ thần sầu trong tiếng Việt :
Ta con ông trạng cháu ông nghè
Nói để trên trời dưới đất nghe
Sức khỏe Hạng vương cho một đấm
Cờ cao Đế thích chấp đôi xe
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại
Chạy tót lên non cõng cọp về
Bữa nọ ghé chơi vườn thượng uyển
Trăm nàng công chúa chạy ra ve
Thi ca trữ tình là môi trường tuyệt hảo cho ngôn từ khuếch đại ngự trị, khi mà con tim nhà thơ bị chấn động bởi những xúc cảm vỡ nước tràn bờ. Lúc đó thi tứ càng lộng thì thi ngữ càng ngông theo, như khi Pablo Neruda (1904-1973) không chút ngại ngần mệnh danh cô bạn gái mình là “nữ hoàng” trong bài thơ La reina. Đây là lý do tại sao cô Matilde đã trở thành nữ hoàng của Pablo, qua một thi ngữ khuếch đại đến mức long trời lở đất :
Y cuando asomas
suenan todos los ríos
en my cuerpo, sacuden
el cielo las campanas
y un himno llena el mundo
Và khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những hồi chuông
lay chuyển cả bầu trời
và một thánh ca ngập tràn thế giới
Ngoa ngữ cũng có thể thấy trong nội dung cố tình làm cho vô lý, nghịch lý, hay ngây ngô của các câu thơ có mục đích gợi sự chú ý tối đa của người đọc. Trong bài thơ As I walked out one evening của thi sĩ người Mỹ (gốc Anh) rất nổi tiếng W. H. Auden (1907-1973) có 8 câu mà ý nghĩa thậm vô lý, khiến ai cũng phải để ý đến mà đọc đi đọc lại vì chúng ngộ nghĩnh lạ thường:
I’ll love you, dear, I’ll love you
Till China and Africa meet
And the river jumps over the mountain
And the salmon sing in the street
I’ll love you till the ocean
Is folded and hung up to dry
And the seven stars go squawking
Like geese about the sky
Anh sẽ yêu em, anh sẽ yêu em
Đến khi nào Trung quốc giáp châu Phi
Và dòng sông nhẩy cao lên đỉnh núi
Và cá hồi ca hát dọc đường đi
Anh sẽ yêu em đến khi biển rộng
Được gấp đôi rồi phơi nắng cho khô
Bảy hành tinh cùng kêu lên quang quác
Tựa ngỗng trời đang bay lượn trên không
Nơi quê hương chúng ta, đệ nhất thi hào Nguyễn Du (1765-1820) trong tuyệt tác Truyện Kiều cũng sử dụng ngoa ngữ thần tình. Ông chỉ cần dùng bốn từ đắc địa (thấm đá, rũ tầm) trong một câu thơ mà đã phóng đại gấp bội được nỗi đớn đau của cuộc chia ly nghiệt ngã sau khi Thúy Kiều tự nguyện bán mình chuộc cha:
Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tầm
Sau đó nàng Kiều rơi vào tay một số đàn ông háo sắc. Họ đều hứa sẽ bảo vệ cuộc đời nàng, nhưng khổ thay, toàn bằng ngoa ngữ. Sở Khanh dụ nàng đi trốn, lộng ngôn đến thế này mới đáng sợ:
Nàng đà biết đến ta chăng
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi
Đến như anh chàng râu quặp nổi tiếng là Thúc Sinh mà khi mê gái cũng hứa hẹn văng mạng:
Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta
Nhưng chỉ đại ngôn của Từ Hải là khả tín, vì người hùng “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” đã giữ trọn được lời thề non hẹn biển của mình với cô Kiều:
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung, nghìn tứ cũng là có nhau
Thi nhân đời Đường bên Tàu có vẻ ít dùng ngôn ngữ thổi phồng, nhưng khi điều ấy xảy ra, nghe cũng vui tai đáo để. Giả Đảo (779-843) đi thi nhiều lần không đậu, bèn vào chùa gõ mõ tụng kinh. Ông thường làm thơ để than thân trách phận, và ông cũng là người làm thơ chậm nhất trần gian –vì thế mà thi rớt hoài chăng– căn cứ vào câu thơ đầu với ngôn từ khuếch đại của bài ngũ ngôn tứ tuyệt mang danh Tuyệt cú của ông:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Quy ngọa cố sơn thu
Hai câu làm mất ba năm
Ngâm lên lệ rỏ đôi hàng vì thơ
Tri âm nếu chẳng biết cho
Trở về với núi thu xưa mà nằm

[Bản dịch Trần Trọng San]
Mức độ thương nhớ chồng đi lính thú phương xa như nữ thi sĩ Trần Ngọc Lan (không rõ năm sinh và năm mất) thuộc đời vãn Đường thì khó có ai sánh được. Mùa đông đến, nàng gửi áo lạnh ra biên thùy cho chồng, rồi người chinh phụ khóc cạn nước mắt, chỉ vì quá lo sợ chiếc áo không đến tay chồng ! Đó là ý nghĩa của bài Ký phu nặng trĩu u sầu của người nữ sĩ Trung quốc thuở xa xưa :
Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
Tây phong xuy thiếp thiếp ưu phu
Nhất hàng thư tín thiên hàng lệ
Hàn đáo quân biên y đáo vô?
Thiếp ở đất Ngô, chồng lính thú
Gió tây thổi thiếp, thiếp lo chồng
Một hàng thư gửi ngàn hàng lệ
Lạnh đến bên chàng, áo đến không?

[Bản dịch Trần Trọng San]
Một niềm sầu bi khắc khoải của thi nhân là nỗi nhớ mong người yêu, vì một lý do nào đó, đã không còn ở bên mình. Người ta kể rằng khi còn tuổi đôi mươi Jakob Lenz (1751-1792) bên trời Đức quốc đã trải qua một kinh nghiệm tình cảm nghiệt ngã — cô bạn gái của anh ta bỗng dưng biệt tích! Quá khổ đau vì tìm kiếm đâu cũng chẳng ra, Jakob chỉ còn biết làm thơ để cầu khẩn nàng về. Wo bist du itzt? (Em ở đâu bây giờ?) là bài thơ chan chứa nỗi nhớ thương cô bạn gái, qua một thi ngữ khuếch đại liên hệ đến trời cao đất rộng, sự vắng lặng nơi thị thành lẫn đồng hoang khiến cả chim chóc cũng bay đi theo nàng hết ráo. Dưới đây là hai đoạn trích dẫn từ bài thơ Wo bist du itzt? của người thanh niên Jakob thất tình ấy :
Seit du entfernt, will keine Sonne scheinen
und es vereint
der Himmel sich, dir zartlich nachzuweinen
mit deinem Freund
Từ buổi em đi, mặt trời vụt tắt
và có mối tâm đồng tha thiết
giữa cao xanh và người bạn em đây
để nhớ thương cùng than khóc bao ngày
All unsre Lust ist fort mit dir gezogen
still ueberall
ist Stadt und Feld. Dir nach ist sie geflogen
die Nachtigall
Mọi lạc thú cùng em khuất bóng
vắng tanh thành phố lẫn đồng hoang
theo em cũng vụt bay đi khỏi
cả chú chim bé nhỏ họa mi
Trong một hoàn cảnh tương tự, thi ngữ bốc đồng của nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998) thực khó quên, trong bài Gọi em:
Một buổi sáng tỉnh dậy không thấy em tôi chạy ra cửa sổ gọi tên em rất to. Những tiếng kêu thất thanh vang trên hè phố.
Tôi bảo rằng: em phải về ngay. Nếu em là gió tôi sẽ làm trăng.
Em là trăng, tôi sẽ là mây. Nếu em là mây, tôi sẽ làm gió thổi.
Còn nếu em là chân trời xa tôi sẽ làm cánh chim bằng rong ruổi.
Em là mặt trời thì ở trên đường xích đạo tôi sẽ muôn đời
làm một kiếp hướng dương …
Bút giả thân chào tạm biệt, với hy vọng giới nam nhi sẽ thành tâm yêu mến những bông hoa nhỏ nhoi trên áo quần ai đó, để khỏi phải mở toang cửa sổ ra mà gào thét tên nàng cho đến hết cả hơi.
Đàm Trung Pháp
--------------------------------
Tài liệu tham khảo
Mack, M., et al. (Eds.) (1995). The Norton anthology of world masterpieces (Volumes I & II). New York and London: W.W. Norton & Company.
Mathieu, G., & Stern, G. (1987). Introduction to German poetry. New York: Dover Publications.
Nguyên Sa (2000). Thơ Nguyên Sa toàn tập. Irvine, CA: Đời.
Pompidou, G. (1961). Anthologie de la poésie francaise. Paris: Librairie Hachette.
Trần Trọng San (1993). Thơ Đường. Scarborough, Canada: Bắc Đẩu.
---------------------------------------------------------------------------------
Khi Nhà Thơ Quá Lời, Đàm Trung Pháp
Người viết lấy hứng khởi cho câu chuyện ngôn ngữ kỳ này từ cách sử dụng ngôn từ khuếch đại rất ngông của Victor Hugo (1802-1885) trong đoạn chót bài thơ Pour Jeanne seule (Viết riêng cho Jeanne) :
Et sais-tu ce qui m’occupe
Jeanne? C’est que j’aime mieux
la moindre fleur de ta jupe
que tous les astres des cieux
Jeanne ơi, em có biết điều chi
đang bận lòng anh không nhỉ ?
Đó là điều anh mê đóa hoa nhỏ nhoi
trên váy em hơn tất cả tinh tú trên trời
Oh là là! Có ai biết cô Jeanne mặc váy dài hay váy ngắn hoặc là có bao nhiêu “đóa hoa nhỏ nhoi” như vậy trên váy cô không? Người viết chỉ biết rằng sau khi tán tỉnh nàng một hồi -- nào là “luôn luôn có một sợi dây xích nó kéo cẳng anh về hướng nhà em”, nào là “anh đang nghĩ đến em quá chừng, em biết chăng” -- thi hào Victor Hugo kết thúc bài thơ bằng một thứ chữ nghĩa khuếch đại, như đã trích dẫn bên
trên, có lẽ ở mức quán quân hoàn cầu!
Ngôn từ khuếch đại (hyperbole trong Pháp và Anh ngữ) còn được gọi là ngôn ngữ thậm xưng, nói quá, cường điệu, vân vân … Công dụng đặc biệt của loại ngôn từ này là để gia tăng (quá cỡ) cái mức độ hỷ, nộ, ái, ố trong một ngữ cảnh với chủ đích nhấn mạnh, gợi sự chú ý, hoặc bỡn cợt. Bài thơ thất ngôn bát cú khuyết danh tác giả dưới đây, làm toàn bằng lộng ngôn ngoa ngữ, là một thí dụ thần sầu trong tiếng Việt :..
Xem tiếp link sau:
Image may contain: text

No comments:

Post a Comment