Bách Việt (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè) là một thuật ngữ lỏng lẻo bao hàm các dân tộc cổ chưa bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã từng sống ở vùng đất mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam giữa thiên kỷ I TCN và thiên niên kỷ I CN[1][2]. Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã sinh sống. Trong tiếng Trung Quốc cổ, các chữ (越, 粵, 鉞) đã thường được dùng thay thế nhau cho nghĩa "Việt". Từ Bách Việt lần đầu tiên thấy chép là trong Sử Ký (Ngô Khởi Truyện) của Tư Mã Thiên[3].
Các sách cổ nói đến nhiều nhóm Bách Việt khác nhau, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Cán Việt (干越), Sơn Việt (山越), Dạ Lang (夜郎), Điền Việt (滇越 / 盔越), Mân Việt, Sơn Việt, Lạc Việt (雒越), Âu Việt (甌越 - hay còn gọi là Tây Âu - 西甌)... Giữa các bộ tộc Bách Việt này có nhiều sự khác nhau về địa bàn cư trú, văn hóa và ngôn ngữ, nhưng ngày nay khó xác định vì các nhóm bộ tộc này đều không có chữ viết nên không để lại các văn bản ghi chép.
Phần lớn các tộc Bách Việt đã bị đánh bại sau cuộc chinh phạt xuống phía Nam của nhà Tần trong giai đoạn 220-210 trước công nguyên, trong thời nhà Hán họ dần dần đồng hóa với người Trung Nguyên để trở thành tổ tiên của người Hán phía nam sông Trường Giang hiện nay. Chỉ còn sót lại Lạc Việt và Âu Việt (2 nhóm cư ngụ ở miền Bắc Việt Nam ngày nay) không bị đồng hóa và là tổ tiên trực tiếp của người Kinh ở Việt Nam ngày nay.
Mục lục
Nguồn gốc
Thời cổ (nhà Thương, nhà Chu), người Trung Quốc gọi các dân tộc sống ở phía nam sông Trường Giang bằng một cái tên chung là Việt. Bắt đầu từ thời nhà Hán, sử sách thường nói đến cái tên Bách Việt với nghĩa "một trăm bộ lạc Việt". Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình." Nhà sử học Trung Quốc La Hương Lâm (羅香林) đã cho rằng các dân tộc này có cùng tổ tiên với nhà Hạ. Tuy nhiên, các di chỉ khảo cổ học có niên đại thuộc thời đại Đồ Đá Mới (Neolithic) tại Quảng Tây và ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các ngôi mộ chum được tìm thấy nhiều ở Việt Nam và một số ở Quảng Tây, cho thấy thổ dân bản xứ có nguồn gốc ở phía Nam và có quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) ở Việt Nam [4].
Các nhà ngôn ngữ dân tộc học cho rằng phát âm của từ 越 (Việt, Yue, Yueh) có thể có liên quan đến một loại sợi cây gai dầu (hemp) được làm tại nơi mà nay là Chiết Giang. Chính chữ Việt (越) có liên quan đến chữ "việt" (鉞 - cái rìu lớn, một thứ binh khí thời xưa), thường được coi là biểu tượng của hoàng gia hoặc quyền lực hoàng đế. Nhiều rìu đá đã được tìm thấy tại vùng Hàng Châu, và còn có bằng chứng rằng loại rìu đó là một phát minh của vùng đất phía Nam. Cổ sử Trung Quốc gọi tên là Việt lần đầu tiên trong lịch sử, Việt là tên một loại vũ khí độc đáo của người Việt cổ đồng thời cũng có nghĩa là vượt, vượt sông Hoàng Hà xuống lưu vực phía Nam.
Các sách cổ nói đến nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Cán Việt (干越), Sơn Việt (山越), Dạ Lang (夜郎), Điền Việt (滇越 / 盔越), Lạc Việt (雒越, tổ tiên trực tiếp của người Kinh ở Việt Nam ngày nay[cần dẫn nguồn]) và Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌). Đa số những cái tên này tồn tại được đến các thời đế chế sơ khai ở Trung Quốc và có thể được giải thích gần đúng là các nhóm văn hóa.
Theo huyền sử Việt Nam, một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ của các dân tộc Bách Việt. Lãnh thổ nước Văn Lang (hay Lĩnh Nam) của các vua Hùng, theo huyền sử cũng trùng với vùng đất Bách Việt.[5] Tuy nhiên Liam C. Kelley (2012) chỉ ra rằng những truyền thuyết về Hùng Vương, họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, nhà nước Văn Lang được tầng lớp quý tộc Việt Nam bị Hán hóa vào thời trung cổ sáng tạo ra nhằm tạo ra bản sắc riêng cho họ khi so sánh với di sản văn hóa của Trung Hoa còn lại tại miền bắc Việt Nam.[6] Các bằng chứng về ngôn ngữ học cho thấy Vietic Nguyên Thủy (Proto-Vietic), ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Việt, Mường, Nguồn, Phong, Liha..., có nguồn gốc từ các tỉnh Khammouane và Bolikhamxay thuộc Lào với một số phân bố qua sườn bên kia của dãy Sai Phou Louang (Annamite) (tức đông Trường Sơn), phía bắc đến Nghệ An và phía đông đến Quảng Bình, nghĩa là xa về phía nam của đồng bằng sông Hồng.[7][note 1]
Đặc điểm và phân loại
Nhận thấy các điểm khác biệt quan trọng giữa các nhóm tộc Việt, các học giả Trung Quốc đã cố gắng phân loại các nhóm Việt khác nhau, thường dựa trên phép gọi tên của các học giả Hán cổ hơn. Ở phía Nam, vùng Quảng Đông, Quảng Tây, vùng đất mà từ thời nhà Tần đã thường được gọi là Lĩnh Nam, người Hán đã xác định các nhóm với tên Dương Việt, Tây Âu, Lạc Việt, Ư Việt, Điền Việt, Dạ Lang, v.v.. Vào đầu thời nhà Hán, Bách Việt được chia thành các nhóm/vương quốc, trong đó: Đông Âu (東甌), Mân Việt (閩越) và Nam Việt (南越, bao gồm cả Tây Âu, Lạc Việt) là các nhóm chính.
- Nước Đông Âu, nằm ở vùng trước là lãnh thổ của các nước Ngô và Việt. (ngày nay là vùng Ôn Châu (溫州), Chiết Giang, Trung Quốc).
- Nước Mân Việt, cũng nằm trong lãnh thổ cũ của nước Việt (tỉnh Phúc Kiến ngày nay), được cho là tổ tiên của người Mânở Trung Quốc hiện đại (những người nói tiếng Mân Nam)
- Nước Nam Việt, trong địa bàn tỉnh Quảng Đông ngày nay, về sau phát triển vào địa bàn tỉnh Quảng Tây và vùng phía Nam. Họ được cho là tổ tiên của người Quảng Đông hiện đại.
- Tây Âu, trong vùng ngày nay là miền Tây tỉnh Quảng Đông và miền Nam tỉnh Quảng Tây
- Lạc Việt, khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay, là tổ tiên trực tiếp của người Việt hiện đại.[cần dẫn nguồn]
Cho đến gần đây, các học giả Trung Quốc mới bắt đầu cố gắng phân biệt các nhóm một cách nghiêm túc hơn. Trong khi nhiều học giả vẫn dựa quá nhiều vào việc trích dẫn các sách cổ, các kết quả khảo cổ học gần đây đã bắt đầu đơn giản hóa quá trình phân tích.
Một số học giả [9][10] liệt kê các đặc điểm văn hóa của các nhóm tộc Việt như sau:
- Tục cắt tóc ngắn và xăm mình
- Xây nhà sàn
- Trang phục đặc trưng bởi quần ngắn hoặc váy quấn (kilt) và đầu đội khăn xếp (turban)
- Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch
- Tục nhổ răng, thường là răng nanh hoặc răng cửa trên
- Tục lệ người cha tham gia quá trình đỡ đẻ, sau đó chăm sóc con nhỏ để người mẹ quay lại với việc làm đồng
- Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ
- Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà
- Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bò sát, và cóc/ếch
- Tục táng trên vách đá
- Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến
- Hình dáng hình học của đồ gốm sứ
- Kỹ thuật dệt phát triển cao
Tuy nhiên, không phải tất cả các đặc điểm trên đều có ở mỗi nhóm tộc Việt. Chẳng hạn, người Việt ven biển phía Đông Nam Trung Quốc, cũng như ở Việt Nam, sử dụng rìu đá có vai, còn người ở vùng biển phía Bắc và xa phía Tây Nam Trung Quốc thì không.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng cách phân chia hữu ích nhất là chia các tộc Việt thành hai nhánh:
- Nhóm Bắc, phân bố khắp vùng Trung và Bắc Quảng Đông, nối với vùng Bắc và Đông Quảng Tây, và trong thời kỳ đầu còn trải dài lên phía Bắc tới Phúc Kiến, Giang Tây, Chiết Giang và Nam Giang Tô.
- Nhóm Nam, với địa bàn trải dài tới vùng mà ngày nay là Tây Nam Quảng Đông, Nam và Tây Quảng Tây, và Bắc Việt Nam.
Các kết quả khảo cổ học có hỗ trợ cho cách phân chia đơn giản này. Các cổ vật đặc trưng cho nhóm thứ nhất, nhóm Bắc, bao gồm đồ gốm hình học (geometric pottery), xẻng đá lớn (large stone shovel), và đồ đồng kiểu Sở. Đặc điểm của nhóm thứ hai, nhóm Nam, là các đồ đồng kiểu tây nam, việc sử dụng các loại dụng cụ đồ đá đa dạng, hầu như không thấy đồ gốm hình học và xẻng đá lớn [11]. Nhóm phía Nam bắt đầu từ Việt Nam và kéo dài theo vùng ven biển lên tới khu vực Tây Nam tỉnh Quảng Đông.[12] Phát triển từ các nhóm văn hóa thời đại đồ đá cũ bản địa, sự tiếp nối của nhóm này đã được ghi nhận. Đó là các xã hội phát triển cao với một nền tảng nông nghiệp và một bộ đầy đủ các loại đồ gốm và đồ đá. Một điểm khác biệt rõ nét khác để phân tách hai nhóm chính là sự phát triển của một trong những loại cổ vật quan trọng nhất của khu vực: trống đồng được tìm thấy chủ yếu ở các vùng Vân Nam, Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm bài Trống đồng.
Hướng tới một phân loại cụ thể hơn, các nhà học giả khác đã sử dụng cách chia ba để phân tách các nhóm văn hóa Việt. Ba nhóm này bao gồm:
- Nhóm Nam Việt (khác với tên nước Nam Việt của nhà Triệu[13]): phân bố tại miền Trung và miền Bắc Quảng Đông, và trong thời kỳ đầu còn bao gồm cả Phúc Kiến, Chiết Giang, và Nam Giang Tô. (trùng với nhóm Bắc của cách chia đôi)
- Nhóm Tây Âu, còn gọi là Âu Việt (甌越): phân bố ở các vùng Quế Giang (桂江) và Tây Giang (西江) của Quảng Tây(廣西).
- Nhóm Lạc Việt: phân bố ở Tây Nam Quảng Đông kéo tới Đông Nam Quảng Tây và Bắc Việt Nam.
Tuy hai nhóm Tây Âu (phía Tây Nam) và Lạc Việt (phía Đông Nam) có thể xếp vào một nhóm khi phân biệt với nhóm Việt phía Bắc, giữa hai nhóm này cũng có những điểm khác biệt quan trọng về cấp độ phát triển. Địa lý là một nhân tố quan trọng để giải thích sự khác biệt này. Phía Tây là vùng đồi núi, do đó, giao thông liên lạc khó khăn và các đa dạng địa phương có thể được bảo tồn lâu dài hay tiếp tục phát triển. Ở miền Đông Nam và các khu vực ven biển, giao thông liên lạc dễ dàng hơn, do đó, sự thâm nhập của các văn hóa bên ngoài cũng dễ dàng hơn, và theo thời gian, các đa dạng văn hóa địa phương có xu hướng phát triển về phía một dạng văn hóa chung. Theo các kết quả khảo cổ học, tuy chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi các nhóm văn hóa vùng Đông Nam Trung Quốc và Việt Nam, các nhóm văn hóa vùng Tây Nam Trung Quốc thể hiện các khác biệt địa phương nổi bật cho thấy một giai đoạn phát triển thấp hơn, đặc biệt về kinh tế nông nghiệp.
Lịch sử
Thời tiền sử
Bên cạnh các di chỉ khảo cổ học về các nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) tại Việt Nam, ở phía Nam Trung Quốc cũng có các di chỉ khảo cổ được cho là của các tộc người Bách Việt cổ bản địa. Hai địa điểm khảo cổ thời Đồ Đá Mới được biết nhiều đến ở Quảng Tây là động Bailian gần Liễu Châu (柳州) và Zhenpi Yan gần Quế Lâm (桂林). Các đồ vật tìm thấy tại Bailian Dong được xác định có niên đại Carbon 14 cách đây khoảng từ 30.000 đến 7.500 năm. Còn niên đại tại Zhenpi Yan được xác định vào khoảng 10.000 năm trước. Có hơn 400 mộ được cho là của tổ tiên người Tráng đã được phát hiện ở vùng này. Trong các mộ này, xác người được chôn ở tư thế nằm co, một kiểu chôn rất hiếm thấy ở Trung Quốc nhưng lại được tìm thấy rất nhiều ở Việt Nam. Theo Jeffrey Barlow,[14], những người thổ dân của vùng này có nguồn gốc ở phía Nam và có mối quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn ở Việt Nam.
Ở vùng Nam Ninh thuộc phía Tây Nam Quảng Tây, người ta tìm thấy các di chỉ với vỏ sò hến nước ngọt lẫn trong lớp tro bếp. Các di chỉ này thường nằm ven bờ các khúc sông, gần các khu đất bằng phẳng, nhà thường quay lưng vào đồi núi. Tại nhiều địa điểm, các nhà khảo cổ học cũng tìm được mộ. Tuy nhiên, ngoài kiểu chôn nằm co phổ biến, còn có các kiểu khác như nằm thẳng hoặc nằm nghiêng. Đặc biệt là các kiểu táng đa dạng này lại được tìm thấy tại cùng một địa điểm.
Rìu đá có vai, đặc trưng của các di chỉ Đồ Đá Mới tại Quảng Đông và Bắc Việt Nam, cũng được tìm thấy tại các địa điểm trên, nhưng được tìm thấy nhiều hơn theo hướng xuôi theo sông.
Cùng với các loại di chỉ khảo cổ khác, sự phân bố trên cho thấy ở phía Đông Nam các nền văn hóa địa phương phức tạp và có tính gắn kết hơn là phía Tây Nam. Sự khác biệt này có thể được giải thích bằng điều kiện địa lý: vùng Tây Nam nhiều đồi núi hơn nên các nền văn hóa ở đây khó giao lưu với nhau hơn.
Dòng di cư của người Hán và chiếm đất
Từ thế kỷ 9 trước Công nguyên, hai nhóm Việt ở phía Bắc, Câu Ngô và Ư Việt, bị ảnh hưởng ngày càng nhiều bởi láng giềng Trung Hoa (người Hán) ở phía Bắc. Hai nước này, một nước có lãnh thổ ở phía Nam Giang Tô, nước kia ở vùng Bắc Chiết Giang. Giới quý tộc lãnh đạo học chữ Hán, tiếp nhận các thể chế chính trị và kỹ thuật quân sự Trung Hoa. Người ta đã cho rằng sự thay đổi về văn hóa này là do Tể tướng nước Ngô là Ngô Thái Bá (吳太伯) - một vương tử của nhà Chu đã chạy về phía Nam lánh nạn. Vùng đất đầm lầy ở phía Nam đã mang lại cho Câu Ngô và Ư Việt những đặc điểm độc đáo. Họ không chú trọng vào làm ruộng mà dựa nhiều hơn vào nghề thủy sản (aquaculture). Giao thông đường thủy có tầm quan trọng lớn ở phía Nam, do đó hai nước này đã tiến lên trình độ cao về kỹ thuật đóng tàu thuyền và kỹ thuật thủy chiến. Họ còn nổi tiếng với những thanh bảo kiếm.
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, hai nước này, bấy giờ có tên là Ngô và Việt, đã tham gia ngày càng sâu vào chính trị Trung Hoa. Năm 512 TCN, Ngô đánh Sở - nước lớn nhất ở miền Trung sông Dương Tử. Một chiến dịch tương tự đã diễn ra vào năm 506, lần này Ngô chiếm được kinh đô của Sở - thành Dĩnh (郢). Cũng năm đó, chiến tranh nổ ra giữa Ngô và Việt và tiếp diễn thêm 3 thập kỷ nữa. Năm 473 TCN, Việt Vương Câu Tiễn (雒句踐 - Lạc Câu Tiễn) cuối cùng đã đánh bại nước Ngô và được các nước phía Bắc là Tề và Tấn (晉) công nhận. Năm 333 TCN, đến lượt Việt bị Sở diệt.
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, vùng đất của Bách Việt bị nhập vào đế quốc Trung Hoa. Quân Tần còn tiến xa hơn về phía Nam dọc theo sông Tương (湘江) tới vùng đất nay là Quảng Đông và thiết lập các quận dọc theo các tuyến giao thông chính. Trong suốt thời nhà Hán, có hai nhóm Việt được nhắc đến, đó là Nam Việt ở phía cực Nam, sống chủ yếu tại các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam; và nhóm Mân Việt ở phía Đông Bắc, tập trung tại sông Mân Giang (閩江) ở vùng Phúc Kiến ngày nay.
Quá trình Hán hóa các dân tộc này được thực hiện bởi sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự đế quốc và định cư của người Hán. Các khó khăn về vận tải và thủy thổ phương Nam đã làm cho việc chiếm đất và cuối cùng là đồng hóa các dân tộc Việt diễn ra một cách chậm chạp. Khi người Hán đến tiếp cận với các dân tộc Việt địa phương, họ thường giành lấy quyền kiểm soát lãnh thổ hoặc khuất phục dân địa phương bằng bạo lực. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào năm 40, tướng Mã Viện của nhà Hán đã đem một lực lượng gồm 10.000 quân đến đánh dẹp. Trong khoảng từ năm 100 đến 184 đã có không dưới 7 cuộc nổi dậy bằng quân sự, nhà Hán đã thường phải dùng đến các hoạt động phòng vệ mạnh.
Khi dân nhập cư người Hán tăng dần, các tộc Việt dần dần bị buộc phải chuyển đến những vùng đất xấu hơn ở khu vực miền núi. Tuy nhiên, không giống với các dân tộc du mục ở miền Trung Á, chẳng hạn người Hung Nô hoặc người Tiên Ti (鮮卑), các dân tộc Việt chưa bao giờ là mối đe dọa lớn đối với sự bành trướng hay quyền kiểm soát của người Hán. Đôi khi, họ thực hiện các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào vùng định cư của người Hán - các nhà sử học truyền thống của Trung Quốc gọi đây là "các cuộc nổi loạn". Về phần mình, người Hán coi các dân tộc Việt là những tộc người rất kém văn minh và có xu hướng gây chiến lẫn nhau.
Tuy nhiên, dưới đời nhà Tần và nhà Hán, các tộc Bách Việt vẫn cư ngụ ở vùng đất cũ của họ với các tổ chức xã hội và chính trị của riêng họ, sự cai trị của chính quyền người Hán chỉ là trên danh nghĩa. Từ thế kỉ 4, khi Trung Quốc bắt đầu bị các tộc du mục phương Bắc đánh chiếm - những người đã chiếm được toàn bộ vùng Bắc Trung Quốc và thiết lập Ngũ Hồ thập lục quốc và Bắc triều, chiến tranh đã gây ra những đợt lớn dân di cư từ phía Bắc về đổ về Nam Trung Quốc. Điều này đã tăng tốc quá trình Hán hóa (giao thoa văn hóa giữa người Bách Việt và người Hán) ở vùng Nam Trung Quốc, dân cư địa phương đã dần dần bị nhập vào văn hóa Hán hoặc phải dời đi nơi khác. Theo thời gian, từ "Bách Việt" đã không còn được sử liệu của Trung Quốc nhắc đến. Phần nhiều các tộc Bách Việt đã bị Hán hóa và đồng nhất với người Hán (hoặc nói cách khác, người Hán di cư làm phong phú thêm văn hóa Bách Việt phía nam Trung Hoa). Một số trở thành tổ tiên của các dân tộc thiểu số như người Cao Sơn (高山族-Cao Sơn tộc) ở Đài Loan, người Tráng, người Bố Y (布依族), người Đồng (侗族), người Hỏa (火族) ở miền Nam Trung Quốc.
Trong khi hầu hết các dân tộc Bách Việt cuối cùng đã bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán, người Việt Nam, hậu duệ trực tiếp của nhóm Lạc Việt, đã giữ được bản sắc dân tộc của mình và cuối cùng thoát khỏi sự thống trị của Trung Hoa vào thế kỷ 10.[15] Tuy nhiên, James R. Chamberlain cho rằng cư dân gốc của đồng bằng sông Hồng là những người nói ngôn ngữ Tai (Thái) và thời gian họ bị sắc tộc Việt Nam thay thế hẳn phải xảy ra vào thế kỷ 7—thế kỷ 9.[16]
Di sản của Bách Việt
Sự sụp đổ của nhà Hán và giai đoạn phân chia sau đó đã đẩy nhanh quá trình Hán hóa. Các giai đoạn bất ổn và chiến tranh ở vùng phía bắc Trung Quốc, như là Nam Bắc triều và trong thời nhà Tống đã dẫn đến nhiều cuộc di dân lớn của người Hán. Hôn nhân giữa các sắc tộc và giao tiếp giữa các nền văn hóa đã dẫn đến sự pha trộn của người Hán và các dân tộc khác ở phía nam. Vào thời nhà Đường, từ "Việt" đã gần như trở thành một địa danh hơn là một từ mang tính văn hóa. Chẳng hạn, trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, một nước tại vùng ngày nay là tỉnh Chiết Giang đã dùng tên nước là Ngô Việt. Cũng giống như vậy, từ "Việt" trong "Việt Nam" có gốc từ chữ "Việt" (越) này.
Ảnh hưởng của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa chưa được người Hán khẳng định một cách chính thức, nhưng rõ ràng ảnh hưởng đó là đáng kể. Các ngôn ngữ của những quốc gia cổ như Ngô và Việt đã hình thành nền tảng cho tiếng Ngô hiện đại (吳語 - Ngô văn) và ở một mức độ nào đó cũng là nền tảng cho tiếng Mân (閩方言)[cần dẫn nguồn] - các ngôn ngữ của vùng Phúc Kiến[cần dẫn nguồn]. Các nhà nhân học ngôn ngữ cũng đã khẳng định rằng một số lượng lớn các từ trong tiếng Trung Quốc có nguồn gốc từ các từ Việt cổ. Một ví dụ là từ "giang" (江), nghĩa là "sông". Các con sông ở phía Bắc Trung Quốc đều được gọi là "hà" (河), trong khi các con sông ở phía Nam Trung Quốc được gọi là "giang" (江). Dấu vết của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là cấu trúc "tính từ đi sau danh từ" (ngược lại với tiếng Trung Quốc) vẫn còn lại trong các tác phẩm văn thơ kinh điển của Trung Quốc như Kinh Thi[17], và trong tên gọi của các vị thần/vương truyền thuyết mà người Trung Quốc coi là của họ như Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Khốc [18].
Ở một mức độ nào đó, một số dấu vết còn lại của các dân tộc Bách Việt và văn hóa của họ còn có thể được thấy trong một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, đặc biệt là người Tráng, và nhiều dân tộc ở Việt Nam[cần dẫn nguồn].
Một số học giả cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn khẳng định cụ thể hơn rằng đây là sản phẩm của người Âu Việt và Lạc Việt[19][20][21][22][23], với các lập luận chẳng hạn như: có thể thấy các khái niệm Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết trống đồng; một số tên quẻ cũng như diễn giải quẻ của người Trung Quốc từ xưa tới nay đôi khi còn rất mơ hồ...
Cách dùng hiện đại
Trong tiếng Trung Quốc hiện đại, các chữ "越" và "粵" là khác nhau. Chữ thứ nhất thường được dùng để chỉ vùng đất nguyên thủy của Vương quốc Việt, một khu vực phía bắc của Chiết Giang và Thượng Hải, đặc biệt là các khu vực xung quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba. Hát tuồng Chiết Giang, chẳng hạn, được gọi là "Việt kịch" (越劇). Chữ "越" cũng được dùng để chỉ Việt Nam (越南). Chữ thứ hai "粵" (yuè) được dùng làm tên gọi tắt của tỉnh Quảng Đông. Tiếng Quảng Đông, được sử dụng tại Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Ma Cao và trong nhiều cộng đồng Hoa kiều ở các nước trên thế giới, còn được gọi là "Việt ngữ" (粵語).
Trong chữ Hán-Nôm mà người Việt Nam sử dụng, chữ "越" cũng được dùng trong tên Việt Nam - "越南".
Lưu ý
- ^ Các ngôn ngữ trong nhóm Vietic đa dạng nhất tại khu vực miền trung Việt Nam và tây Trường Sơn thuộc Lào và các phương ngữ của tiếng Việt có mức độ đa dạng nhất tại miền trung Việt Nam. James R. Chamberlain cho rằng nguồn gốc của các cư dân nói nhóm ngôn ngữ Vietic, mà bao gồm hai nhóm chính: một bị Hán hóa nặng nề (Việt Nam) và một bị các cư dân Tai ảnh hưởng (Mường), bắt nguồn từ khu vực đông Trường Sơn thuộc miền trung Việt Nam và các tỉnh Khammouane và Bolikhamxay thuộc Lào. Họ di cư từ phía nam lên vùng đồng bằng sông Hồng chứ không phải từ phía bắc, tức nam Trung Hoa, xuống và cũng không phải cư dân bản địa của khu vực đồng bằng sông hồng.[8]
Chú thích
- ^ Meacham, William (1996). “Defining the Hundred Yue”. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 15: 93–100.
- ^ Barlow, Jeffrey G. (1997). “Culture, ethnic identity, and early weapons systems: the Sino-Vietnamese frontier”. Trong Tötösy de Zepetnek, Steven; Jay, Jennifer W. East Asian cultural and historical perspectives: histories and society—culture and literatures. Research Institute for Comparative Literature and Cross-Cultural Studies, University of Alberta. tr. 1–15. ISBN 978-0-921490-09-8.
- ^ [1]
- ^ Meacham, William "Origins and Development of Yue Coastal Neolithic: A Microcosm of Cultural Change on the Mainland of East Asia," Berkeley: University of California Press, 1983. Tác giả gọi nền văn hóa vùng nam Trung Quốc là 'Bắc Sơn Nam Trung Quốc' (South China Bacsonian)
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư. Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị: "Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam)"
- ^ Kelley, Liam C. (2012). The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition". Journal of Vietnamese Studies, Vol. 7, No. 2: 87-122, published by: University of California Press.
- ^ Chamberlain, James R. (1998). The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History". Journal of the Siam Society 86.1 & 86.2: 37.
- ^ Chamberlain, James R. (1998). The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History". Journal of the Siam Society 86.1 & 86.2: 27-44.
- ^ Yu Tianji, Qin Shengmin, Lan Riyong, Liang Xuda and Qin Cailan (eds.) Gu Nan Yue Guo Shi., [The History of the State of Ancient Yue.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1988., pp. 179-188.
- ^ Chen Guoqiang, Wu Nianji, Jiang Bingzhao and Qin Tucheng, Bai Yue Minzu Shi, [The History of the Bai Yue People.] Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe, 1988, pp. 41-61.
- ^ Yu Tianzi, Qin Shengmin, Lann Riyong, Liang Xuda, Qin Cailan (eds.) pp. 194-8. Lu Mingtian, "Qin Han Qianhou Lingan Bai Yue Zhuyao Zhixide Fenbu ji qi Zu Cheng." [The Distribution and Names of the Important Branches of the Bai Yue Peoples of the Lingnan Before and After the Qin and Han.] pp. 143-159 in Bai Yue Minzu Shi Yanjiu Huipian, [The Research Committee of the History of the Bai Yue Peoples] (eds) Bai Yue Minzushi Lun Cong, [A Collection of Essays on the History of the Bai Yue Peoples.] Nanning: Guangxi Renmin Chubanshe, 1985. pp. 144-5 bổ sung sự có mặt của các loại rìu đá có vai (shouldered axe) trong cái mà tác giả gọi một đặc điểm nổi bật của văn hóa phía Đông Nam.
- ^ Meacham, pps. 147-177.
- ^ Vì "Nhóm Nam Việt" còn bao gồm Phúc Kiến, Chiết Giang và phía nam Giang Tô. Điều này khác hoàn toàn với lãnh thổ nước Nam Việt của nhà Triệu
- ^ Jeffrey Barlow, The Zhuang. Chương 1. Mục 1.1, Pacific University
- ^ Khoảng thế kỷ 12-13, khi quân Mông Cổ diệt nước Đại Lý, dân nước này chạy về phía Nam và trở thành tổ tiên của người Thái hiện là sắc tộc chính tại Thái Lan và Lào, và là dân tộc thiểu số tại Việt Nam và Miến Điện. Có thuyết cho rằng những người này có tổ tiên là Bách Việt.
- ^ Chamberlain, James R. (1998). The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History". Journal of the Siam Society 86.1 & 86.2: 44.
- ^ Một trong nhiều ví dụ:
- Trung tâm dao dao (Thử ly: trong lòng nao nao)
- Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông)
- ^ Không phải "Nông Thần", "Nghiêu Đế", "Thuấn Đế"....
- ^ Kim Định, Dịch Kinh linh thể, [2]
- ^ Kim Định, Gốc rễ triết Việt, Ghi chú về Lạc Thư là sách của Lạc dân
- ^ Trần Quang Bình, Kinh Dịch, sản phẩm văn hóa của nền văn minh Âu Lạc [3]
- ^ Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam? Loạt bài trên Thanh Niên Online
- ^ Tìm về cội nguồn Kinh Dịch- Nguyễn Vũ Tuấn Anh
No comments:
Post a Comment