Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi"
(Nguyễn Bính)
Ngày xưa, khi còn đi học và ở trong ký túc xá thuộc một trường đại học lớn ở Saigon, tôi có dịp đọc “Ngày Xưa Còn Bé” của Duyên Anh, và qua đó đã cảm được những bài thơ trữ tình của Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Thật ra, tôi bị mê hoặc thì đúng hơn. Nhưng giữa hai tác giả, thì tôi cảm thấy gần gũi với Nguyễn Bính hơn, có lẽ vì tôi là dân quê mùa, tỉnh lỵ. Những câu thơ tình
"Tờ lá thắm đã lạc dòng u uất ,
ánh mai soi cũng pha nhạt màu ôi
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất,
Anh cho em, nên anh đã mất rồi"
thật là hay, nhưng sao tôi vẫn thích những câu thơ đơn giản, mộc mạc gần như ca dao của Nguyễn Bính:
"...Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng ..."
Tôi nghĩ, hầu như trong chúng ta, những người lớn lên ở Việt Nam, chắc ai cũng không ít thì nhiều nghe qua hay biết về nhà thơ tài hoa nhưng vắn số này. Điều đó cũng dễ hiểu, vì thơ của Nguyễn Bính hình như đã đạt được trình độ dễ nhớ và đại chúng.
Đi ngược dòng thời gian một chút, vào đầu thế kỷ 20, khi mà phong trào thơ cũ (theo truyền thống) không còn phát triển nữa, thơ mới được trỗi dậy như trăm hoa đua nở. Trong khi người ta nô nức đua nhau theo phong trào thơ mới, làm thơ mới, thì Nguyễn Bính và Tú Mỡ vẫn tiếp tục đi theo con đường thơ cũ. Giữa những khuôn mặt sáng giá của vườn thơ mới như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, v.v. tên tuổi của Nguyễn Bính vẫn không hề bị lu mờ, mà ngược lại ông còn tạo được bản sắc rất riêng của mình. Nguyễn Bính viết:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”
Có người cho rằng qua bài thơ này Nguyễn Bính muốn làm một bản tuyên ngôn về đường lối sáng tác của mình. Đường lối thơ theo nhà quê. Không cần ra tỉnh, cứ hương đồng gió nội là hay rồi.
Nguyễn Bính là thi sĩ của tình yêu. Nhưng tình yêu của Nguyễn Bính không phải chung chung như:
Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ...
(Xuân Diệu)
hay táo bạo và Tây phương hóa như:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ...
Nhưng tình yêu của Nguyễn Bính rất nhẹ nhàng, tế nhị và Việt Nam:
“Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này ...”
Và cũng không phải vội vàng, chạy theo kim đồng hồ như Xuân Diệu:
"Mau với chứ, vội vàng lên với chứ ...
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi..."
mà chỉ chầm chậm:
“Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng chung một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau”
Có lẽ trong chúng ta, ai cũng một lần nghe qua một vài câu thơ trang nhã, tình tứ và sâu xa trong bài Người Hàng Xóm:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng ...”
và để rồi tiếc cho một mối tình nhẹ nhàng nhưng đầy thi vị của thi sĩ. Nhà thơ yêu một người con gái (có thể là tưởng tượng), nhưng chỉ yêu thầm, không dám nói ra, mà chỉ âm thầm tự nhủ "tôi buồn tự hỏi hay tôi yêu nàng?", để rồi ngày tháng qua đi và nàng chết. Thi sĩ đã than khóc và mới nhận ra được là mình đã yêu:
“Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc ... Quả tôi yêu nàng.”
Thời còn đi học, tôi thật sự đã cảm những câu thơ trên đây của Nguyễn Bính. Lúc đó, tôi còn muốn tìm hình ảnh của mình đâu đó trong bài thơ để hỏi mình có thương thầm ai không? Nhưng nào có được, khi mà sách vở và thi cử cứ đè nặng lên cuộc đời sinh viên đầy gian truân ...
Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính, có viết: "Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu". Thật vậy! Nhiều bài thơ của Nguyễn Bính mang vần điệu ca dao và rất dễ nhớ. Nguyễn Bính không dùng chữ trừu tượng hay cầu kỳ để viết nên những vần thơ để đời. Ông cũng không không dùng những triết lý cao siêu để nói lên những điều hiển nhiên trong cuộc sống. Những câu lục bát của bài Tương Tư thật là dễ hình dung:
“Thôn Đoài ngôì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”
Tôi thấy cái so sánh "gió mưa là bệnh của trời" với "tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" rất ư là sáng tạo và cân xứng. Trong câu "gió mưa là bệnh của trời" có âm vang của gió bão, trong khi câu kế "tương tư là bệnh của tôi yêu nàng" thì lại tả cái âm vang của một tấm lòng. Hai câu thơ không chỉ nói về cái vũ trụ mà còn nói về cái tình trong vũ trụ. Gió mưa của trời, của vũ trụ, luôn gây ra cái cảm giác buồn buồn. Và tương tư là một tính của con người, nhất là đôi trai gái yêu nhau; là một cái vốn tự nhiên. Tương tư là bệnh của tình nhân, như mưa gió là bệnh của trời đất.
Cũng có ý cho là "gió mưa" được lấy từ điển "Phong Vũ", tên một bài thơ trong Trịnh Phong, Kinh Thi, thể hiện tình cảm của người con gái đợi người tình. Tôi thấy ý này không chính xác mấy, vì Nguyễn Bính không học chữ một cách hệ thống từ nhà trường mà chỉ tự học từ một ông chú. Nguyễn Bính cũng không dùng điển tích trong thơ văn của ông ta .
Tôi còn cảm thơ Nguyễn Bính vì cái đặc tính mộc mạc, rất quê muà Bắc bộ.
“Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh đã nhuộm thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi..
Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Mặc dù lúc đó tôi chưa hề ra miền Bắc bao giờ, nhưng đọc những câu thơ này, tôi cũng có thể hình dung ra cái trữ tình của trai gái thuộc vùng đồng bằng Bắc Việt Nam. Chỉ có trong thơ Nguyễn Bính, tôi mới thấy rõ tình yêu của người Việt Nam trong khung trời Việt Nam, vì chỉ Việt Nam mới có "thôn đoài, thôn đông" hay "hàng cau liên phòng".
Phần lớn các nhà phê bình đều nhận xét là tình yêu của Nguyễn Bính không lãng mạn, nồng cháy như Xuân Diệu, không chứa chan như Huy Cận, nhưng nhẹ nhàng và mộng tưởng. Riêng tôi thì thấy Nguyễn Bính cũng yêu say đắm lắm chứ. Thi sĩ yêu đến nỗi phải ghen. Người không muốn người yêu mình hôn hoa, xức nước hoa, đi tắm biển và thậm chí không muốn thấy người yêu "ôm gối chiếc đêm ngủ". Ghen như vậy thì quả là hết ý!
“Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ
nhìn tôi những lúc tôi xa xôi
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai
Đừng hôn, dù thấy đóa hoa tươi
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay, bể lắm người
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa
mà cô thường xức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
dẫu chỉ qua đường khách lại qua
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên”
Có người cho rằng bài thơ Ghen trên đây là bài thơ khéo nhất của Nguyễn Bính; từ cách gieo vần đến lời thơ và chất thơ .
Bên cạnh những bài thơ tình mà Nguyễn Bính đã tả một cách rất ngọt, rất chân chất ấy, nhà thơ còn rất thành công trong các bài thơ về người mẹ, người chị, giản dị đến không ngờ, nhưng gây xao xuyến và xúc động đến không ngờ cho độc giả. Chắc mọi ngươì còn nhớ bài “Lòng Mẹ” của Nguyễn Bính. Không một lời bóng bẩy, hào nhoáng, chỉ mộc mạc như tấm lòng của bao bà mẹ Việt Nam, nhưng sao đi vào lòng người đến thế:
“Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi! Các chị trông
Ương ương dở dở quá đi thôi!
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào! Lau nước mắt
Mình cô làm bận mấy mươi người
Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai
Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô tôi đảm dương
Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả
Tôi còn mạnh chán, khiến cô thương”
Để rồi khi tiễn con ra ngõ về nhà ai, mẹ một mình quay vào lủi thủi một mình, một bóng. "Con gái là con người ta mà". Đọc đến đây ai mà không cảm động? Những vần thơ chân chất đến độ khó mà phân biệt được đâu là đời và đâu là thơ nữa
Một bài thơ nữa của Nguyễn Bính, viết về cảm xúc của người chị cho người em khi đi về nhà "người ta" trong bài "Lỡ Bước Sang Ngang":
“Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa”
Hẳn lòng người "chị" trong bài thơ này phải có nhiều uẩn khúc lắm, thế nên, lẽ ra phải vui trong ngày hạnh phúc của đời mình, nhưng giọng thơ lại chứa chất tang tóc, đau thương.
“Mắt quầng tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì
Một lần sẩy bước ra đi
Là không hẹn lại ngày về nữa đâu
Em về thương lấy mẹ già
Đừng trông ngóng chị nữa mà uổng công
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã sang sông đắm đò”
Có người cho rằng Lỡ Bước Sang Ngang là một bản tuyên ngôn về quyền phụ nữ của Nguyễn Bính. Có thể là cách đây 50 năm, phụ nữ Việt Nam chưa có quyền tự do lựa chọn, không được bình đẳng trong hôn nhân, vì vậy mà đại đa số chị em có ý nghĩ rằng đám cưới của mình như là một sự "lỡ bước sang ngang".
Không ai phủ nhận được là Nguyễn Bính là tác giả của những lời thơ bình dân. Ông không ca ngợi những vẻ đẹp xa vời hay những bóng dáng mỹ lệ, nhưng chỉ ghi lại và nói những chuyện hàng ngày, rất gần gũi với đại chúng. Một trong những hình ảnh đó là "Những Bóng Người Trên Sân Ga". Trong bài này, tôi thấy những cuộc chia lìa cứ tiếp tục, gần như không ngừng:
“Những cuộc chia lìa khởi từ đây
Cây đàn sum hợp đứt từng dây
Những lời bèo bọt, thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tháng ngày
Có lần tôi thấy hai cô bé
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
-- Đường về nhà chị chắc xa xôi”
và còn gì cảm động hơn hơn khi thấy hai người yêu đang bịn rịn chia tay:
“Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu”
và những cảnh mà tôi nghĩ là ta thấy hàng ngày trên các sân ga:
“Hai chàng tôi thấy tiễn đưa nhau
Kẻ ở sân ga, kẻ cuối tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu
Có lần tôi thấy vợ chồng ai,
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dàị
Chị mở khăn trầu anh thắt lại,
Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!
Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi tận chốn xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”
rồi những người cô đơn, không có bạn bè, người thân:
“Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những dôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này ?
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?”
Biệt ly nào mà không buồn? Cuộc vui nào mà chẳng có lúc chia taỷ Ngày vui lúc nào cũng qua mau và chỉ để lại cho người nhiều ngày buồn sau đó. Có lẽ trong đời người, thời gian buồn nhiều hơn thời gian vui, nên trong bài thơ này, tôi chỉ thấy toàn những hình ảnh của chia tay cứ dồn dập.
Có ai đó đã nói "Cuộc đời là một bài thơ lớn." Tôi thấy điều này rất đúng với Nguyễn Bính. Ông sinh ra ở miền Bắc VN, nhưng sau này (trước 1954), ông lưu lạc vào Nam. Khoảng 1952, ông từng làm phó chủ tịch tỉnh bộ Kiên Giang, phụ trách về văn hóa tuyên truyền. Trong thời gian ở ngoài Bắc, ông viết thơ tình nổi tiếng; trong thời gian đi kháng chiến trong Nam, ông viết nhiều bài thơ về kháng chiến, yêu nước, nhưng không mấy thành công và ít ai biết đến. Một trong những bài ông viết trong lúc còn "nằm gai nêm mật" trong rừng U Minh là Người Của Ngày Mai. Trong bài, ông đã tả được một cuộc sống gian lao của những người yêu nước, kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ :
“Ở chòi hẹp nhưng hồn bao trùm vũ trụ
Trái tim đau nhưng thương cả loài người
Đã nhiều hôm không thấy bóng mặt trời
Bởi làm việc liên miên và bí mật...”
Những người yêu nước này là ai? Họ là những đứa con VN đến từ ba miền của đất nước, mỗi người mang theo một sắc thái riêng biệt:
“Quê các anh ở miền Trung đá núi
Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co
Đêm trong xanh, cao vút tiếng ai hò
Trên bến vắng một dòng sông nổi bạc
Quê các anh ở miền Nam bát ngát
Trái dừa xiêm nước ngọt buổi trưa nồng
Đôi ba cô gái bán hàng bông
Chèo yểu điệu một xuồng đầy vú sữa
Theo dòng kênh đi sâu vào biển lúa
Quê các anh ở miền Bắc xa xôi
Bước chân đi , không biết mấy năm rồi
Xa cha mẹ anh em, xa tất cả
Nương dâu xanh, chiếc cầu ao , mái ra...”
Họ là ai ?
- Là người của ngày mai .
Sau 1954, Nguyễn Bính tập kết về lại Bắc, ông bị vài người trong chính quyền Hà Nội lúc đó cho là phản động và đã chết trong tủi nhục lúc chỉ 47 tuổi, cái độ tuổi đầy sáng tạo.
Tôi cố tìm một vài phê bình về cái "dở" của thơ Nguyễn Bính mà chẳng thấy bao nhiêu . Phần lớn thơ của Nguyễn Bính được viết theo thể thơ của dân gian. Chả thế mà nhiều nhà phê bình đều đồng ý là Nguyễn Bính là nhà thơ của đồng quê. Tuy nhiên Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính trong Thi Nhân Việt Nam, cũng có trách: "Giữa những bài giống như ca dao, người ta bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật". Chẳng hạn như những câu:
“Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong…”
đã làm Nguyễn Bính hết cái "quê mùa" rồị Còn lại, tôi không thấy ai chê thơ của ông cả.
Viết về Nguyễn Bính thì chắc cả một cuốn sách cũng không đủ. Càng lục lại trong tiềm thức càng thấy nhớ nhiều, "Chân quê", "Trường huyện", "Cô hái mơ", "Lẳng lơ" ... toàn những bài đã dược chuyền tay chép đi chép lại trong thời học sinh. Nhưng sao thấy ngôn từ bỗng trở nên khô cứng và trống rỗng dến thảm hại mỗi khi nói về thơ ông. Phải chăng cái "hồn" trong thơ ông đã nói hộ hết rồi ...
Tôi nhớ hoài một lời nói của Nguyễn Bính đâu đó là "Làm văn nghệ khó lắm" vì "Có nhiều ý, nhiều chữ quá tuyệt mà người khác đã cướp mất, trước mình. Mình chỉ nhái lại thôi". Và, tôi cũng chỉ đang nhái lại vài chữ của tiền nhân để bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với một nhà thơ mà tôi cho là của tha hương và tình yêu trắc trở.
Trích từ
Chân Quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh!
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Cô Hàng Xóm
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên...
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,
Tôi buồn tự hỏi: «Hay tôi yêu nàng?»
Không, từ ân ái lỡ làng,
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao?
Tơ hong nàng chả cất vào,
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái lỡ làng,
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.
Tầm tầm trời cứ đổ mưa,
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
Cô đơn buồn lại thêm buồn,
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi!
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,
Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng...
Nhớ con bướm trắng lạ lùng!
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.
Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi !
Đêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.
Hồn trinh còn ở trần gian?
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!
Quê Tôi
Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Tôi về đây, đã lâu rồi,
Nằm trong cô tịch nhớ người phồn hoa
Tóc tơ, mình liễu da ngà,
Một người càng nhớ, càng xa một người.
Ngày trông mây trắng bay hoài
Ðêm mơ áo trắng bay dài năm canh.
Lòng vàng lạc cánh chim xanh
Lạc từ cái ý chung tình lạc đi
Chẳng điên chẳng dại là gì
Bỗng dưng mà biệt mà li mọi người
Chưa xa đã nhớ nhau rồi
Nửa là hơn một tháng trời xa nhau.
Người đi nghỉ mát những đâu
Ðồ Sơn, Tam Ðảo, nhà lầu xe hơi
Ở đây tôi chỉ đợi trời
Mưa vàng một trận là tôi lên đường
Sông ngang, núi trái bất thường
Buồng the chẳng xót dậm trường thì thôi
Mai ngày tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi! bỏ chùa
Ðem thân đi với giang hồ
Sân ga phẳng lặng, bến đò lênh đênh
Quê hương chẳng nhớ cũng đành
Cũng xin dâng cả chân tình cho ai.
Năm năm mây trắng bay hoài
Hồn tôi áo trắng tang dài đêm đêm.
Cô Hái Mơ
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
Hỡi cô con gái hái mơ già!
Cô chửa về ư? Ðường thì xa
Mà ánh trời hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương.
Cô hái mơ ơi!
Chẳng trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.
Tương Tư
Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai biết, ai người biết cho.
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau.
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông
Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào?
Gái Xuân
Em như cô gái hãy còn xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần.
Xuân đến, xuân đi, hoa mận nở
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân.
Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng
Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng
Ðôi tám xuân đi trên mái tóc
Ðêm xuân cô ngủ có buồn không?
Nguyễn Bính
Thi Sĩ Nguyễn Bính
Đôi dòng tiểu sử
Tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định (nay là Hà Nam Ninh). Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, tự học ở nhà, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi.
Nguyễn Bính được giải khuyến khích thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn năm 1937 với tập thơ Tâm Hồn Tôi.
Ông tham gia kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ, tập kết ra Bắc năm 1954, làm việc tại Hội văn nghệ Việt Nam, Ty văn hóa thông tin Nam Hà. Năm 1958, Nguyễn Bính làm chủ bút báo Trăm Hoa.
Ông mất ngày 20 tháng 1 năm 1966 tại Hà Nội.
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Tâm Hồn Tôi (1940), Hương Cố Nhân (1941), Mây Tần (1942), Người Con Gái Ở Lầu Hoa (1942), Tình Nghĩa Đôi Ta (1960), Tuyển Tập Nguyễn Bính (1984); kịch thơ Bóng Giai Nhân (1942); truyện thơ Truyện Tỳ Bà (1944)...
Thơ Nguyễn Bính "chân quê": giản dị, mộc mạc, nhẹ nhàng, trong sáng, và hồn nhiên như ca dao trữ tình. Ông viết về làng quê qua lăng kính tình cảm lãng mạn, biểu lộ một tình quê, một hồn quê chân tình và gần gũi. Giáo Sư Lê Đình Kỵ có nhận xét về thơ Nguyễn Bính: "Nổi bật lên ở Nguyễn Bính là ca dao, ở cảm xúc lẫn tư duy, ở cả ý, tình, và điệu..."
Thơ ông là những bài ca dao trữ tình. Thứ tình chân chất, quyện theo con sông, giếng nước, lũy tre đầu làng, con trâu, ruộng vườn, giàn mướp, hàng giậu, con thuyền và bến đò, mái đình và chợ phiên... Bao nhiêu là cảnh làng quê của một dân tộc hiền hòa, và nghèo khổ. Nhưng lồng trong ngôn ngữ ca dao ấy, là cả một trời yêu thương tha thiết, đằm thắm, sâu đậm, và hết sức lãng mạn. Chính tình yêu của ông đã nâng ca dao lên thành thơ; và nâng thơ lên thành những khúc hát tuyệt vời cho những con người và những cuộc tình, giản đơn hoặc ngang trái, bình thường hoặc muôn kiếp sầu đau. Một mình một cõi, một lối riêng, ông xâm chiếm bao trái tim sầu mộng và khổ đau, ru họ bằng những lời thơ lúc man mác, lúc đậm đà, lúc khẳng khái, lúc dây dưa... và trên hết, thơ ông như những bài ca vịnh tình yêu. Luôn luôn là những lời ca tụng, dù cho những "lỡ bước", dù cho những "sang ngang", dù cho cứ lẻ đôi, và tương tư suốt mùa...
Trích từ
Nguyễn Văn Tuấn
No comments:
Post a Comment